Green_415_TaKeR Senior
Tổng số bài gửi : 135 Age : 29 Đến Từ : Lê Anh Xuân junior high Nghề Nghiệp : Student Điểm : Registration date : 04/04/2008
| Tiêu đề: Hạn chế của nền Giáo dục Việt Nam Wed Jul 23, 2008 2:41 pm | |
| - Trích dẫn :
I. Những hạn chế của nền giáo dục Việt Nam
Những hạn chế của nền giáo dục Việt Nam bắt nguồn từ những nhược điểm có tính truyền thống của văn hóa Việt Nam và những hạn chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhiều cuộc cải cách giáo dục đã được tiến hành nhưng hầu hết đều thất bại do chỉ cải cách trên phương diện lý thuyết. Nói cách khác, chúng ta chỉ mải miết theo đuổi các chương trình lý thuyết và kém thực dụng. Hậu quả là, hệ thống giáo dục ngày càng không tương thích, thậm chí ngày càng tách khỏi cuộc sống.
Khác với kinh tế bao cấp, kinh tế thị trường đòi hỏi người lao động phải có những năng lực mới. Bị chi phối nặng nề bởi những nguyên lý giáo dục cũ, hệ thống giáo dục hiện nay dường như không thể đáp ứng được yêu cầu về nhân lực của nền kinh tế chuyển đổi. Người lao động được đào tạo không tương thích với yêu cầu sử dụng. Phương châm đào tạo "vừa hồng vừa chuyên" vẫn chi phối hệ thống đào tạo khiến cho lực lượng lao động được giáo dục quá nhiều về nhận thức chính trị, thay vì được giáo dục năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng.
Do ngành giáo dục không đào tạo được một lực lượng lao động thỏa mãn yêu cầu của thị trường nên hiện nay, nhiều công ty đặc biệt là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, buộc phải tự đào tạo lấy người lao động của mình. Lý do đơn giản là chất lượng đội ngũ lao động Việt Nam, bao gồm cả đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật, chưa đáp ứng được những đòi hỏi về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường. Chúng ta trang bị cho người lao động những kiến thức mà hệ thống chính trị cần nhưng tiếc thay, những kiến thức này không phù hợp, hay nói đúng hơn, lạc hậu so với thời đại. Điều này giải thích tại sao người lao động Việt Nam thường bị đánh giá thấp hơn, và do đó, bị trả lương thấp hơn trên thị trường lao động so với lao động nước ngoài có cùng trình độ chuyên môn và cùng thời gian đào tạo.
Để đưa ra những giải pháp khoa học và toàn diện cho cải cách giáo dục, chúng ta cần phân tích những nhược điểm chủ yếu của nó: Thứ nhất, xét về phương diện triết học và chính trị học, chương trình giáo dục không có tính đa dạng cần thiết của khoa học nhận thức. Các nguyên lý nhận thức luôn máy móc và giáo điều. Bên cạnh đó, những nhà giáo dục học của chúng ta lại không nhận thức được tính lạc hậu hàng ngày của các chương trình giáo dục và chương trình kiến thức. Chính bởi vậy, họ thường trang bị cho học viên quá nhiều kiến thức không cần thiết? thậm chí cả những kiến thức chỉ có giá trị thực tiễn vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước.
Thứ hai, ngành giáo dục đào tạo không xem người lao động như một thực thể con người với các quyền độc lập của nó. Chúng ta đào tạo kỹ năng như việc nhét chúng vào một cái hộp mà quên mất rằng con người không phải là một cái hộp kiến thức mà là một cửa hàng bán kiến thức, và họ cần phải biết cách bán kiến thức để đổi lấy thu nhập. Kết quả là, chúng ta có một lực lượng lao động hoặc thiếu hoặc không có năng lực ứng xử và không độc lập để bán các giá trị của mình trên thị trường lao động.
Thứ ba, hệ thống giáo dục nặng về thi cử với những kỳ thi kéo dài triền miên gây áp lực cho cả thí sinh lẫn phụ huynh. Một cách rất chủ quan, các nhà giáo dục học của Việt Nam luôn cho rằng thi cử là cách tốt nhất để lựa chọn đầu vào mà quên mất rằng, mặt trái của thi cử là tâm lý đối phó thường trực nơi học viên và những cuộc chạy đua hành lang nơi phụ huynh nhằm kiếm tìm cho con em mình những bảng điểm "lấp lánh thành tích” ở những ngôi trường tốt. Không nhận thức được vấn đề này, các nhà giáo dục học của chúng ta bất lực trong việc trả lời câu hỏi tại sao ngày nay học sinh, sinh viên trải qua nhiều cuộc thi như vậy mà chất lượng giáo dục vẫn không được cải thiện.
Thứ tư, một trong những sai lầm cơ bản nhất của hệ thống giáo dục Việt Nam là coi vai trò của giáo dục đại học cao hơn giáo dục phổ thông. Tư tưởng này trái ngược với hầu hết các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Bởi lẽ, giáo dục phổ thông là nơi cung cấp những phương pháp tư duy ban đầu và nền tảng kiến thức cho việc truy đuổi học thuật trong tương lai. Bên cạnh đó, giáo dục phổ thông còn là giai đoạn giáo dục văn hóa, đạo đức, phong cách cho học sinh và trong giai đoạn này nhân cách của học sinh được định hình. Do không được giáo dục tốt trong giai đoạn phổ thông, lực lượng lao động của chúng ta có thể được đánh giá cao về năng lực chuyên môn nhưng lại bị đánh giá thấp về nhân cách, và hơn thế còn bị định kiến trên thị trường lao động thế giới.
Tóm lại, những sai lầm kể trên đã khiến chúng ta rất chậm trong việc nhận thức về thời đại và các đặc điểm của nó. Hậu quả là, chúng ta không chỉ đứng trước nguy cơ mà thậm chí đã thực sự rơi vào tình trạng lạc hậu trước ngưỡng cửa của thời đại mới.
Tâm lý ngại thay đổi của người Việt
Trong thời đại ngày nay, đời sống xã hội phát triển nhanh đến mức các khái niệm lạc hậu dần, thậm chí lạc hậu từng ngày, từng giờ so với đời sống. Tuy nhiên, do tâm lý ngại thay đổi, chúng ta luôn mong muốn sự ổn định, dẫu rằng nhiều khi chỉ là sự ổn định giả tạo, dẫn đến việc ngủ quên trên các khái niệm cũ và lần lữa trong việc đổi mới để thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống. Đó là một sai lầm lớn bởi sẽ không bao giờ có sự đồng thuận giữa quá khứ và tương lai. Tất cả các khái niệm hiện tại đều lạc hậu so với sự phát triển của thời đại, vì vậy, nhiệm vụ của giáo dục là phải đổi mới chúng và chuẩn bị lực lượng cho tương lai.
Tóm lại, thay vì lạc lối trong các thuật ngữ và tôn thờ các lý thuyết cổ xưa, chúng ta phải tôn thờ cuộc sống, mà mục đích của cuộc sống, bản thể của cuộc sống là con người. Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy được sự yếu kém của mình so với thế hệ trẻ thì đất nước chắc chắn sẽ phát triển. Hệ thống chính trị chỉ tiến bộ khi nó nhận thức được tính lạc hậu hiện tại của chính nó và có đối sách sao cho sự xuất hiện các yếu tố tương lai trở thành tầm nhìn chính trị. Chính tương lai sẽ buộc chúng ta phải thay đổi và đổi mới; và cải cách chính là cách thức duy nhất để không bị tụt hậu trong thế giới hiện đại.
Thương mại hóa giáo dục
Trong nền kinh tế thị trường hiện dại, thương mại hóa giáo dục là hiện tượng quan ngại nhất. Thương mại hóa giáo dục, hay được những cái tên khác như tư nhân hóa, thị trường hóa giáo dục là điều tuyệt đối không nên làm. Bởi thương mại hóa giáo dục chắc chắn sẽ tạo điều kiện cho những người hoạt động trong ngành giáo dục tiếp cận với mặt trái của kinh tế thị trường.
Trong khi những nước tiên tiến sử dụng các công cụ thương mại chuyên nghiệp để hỗ trợ giáo dục, chúng ta lại thương mại hóa giáo dục ở nhiều mức độ và dưới nhiều hình thức khác nhau.
Một số người do thiển cận đã đề xuất sáng kiến nên coi trường tư thục là cơ sở kinh doanh và điều chỉnh hoạt động của nó theo Luật Doanh nghiệp. Đó là việc làm nguy hiểm bởi trường học là cơ sở xã hội, Chính phủ phải ban hành các chính sách để đảm bảo sự tồn tại lâu dài của nó và thực hiện các biện pháp cứu trợ kịp thời trong trường hợp xảy ra rủi ro. Mọi xáo động bất thường, chẳng hạn việc trường học tuyên bố phá sản hay bị đình chỉ hoạt động, đều gây ra thiệt hại khó lường cho xã hội.
Mặt khác, trường học là môi trường hoàn thiện nhân cách cho thế hệ tương lai. Nếu thương mại hóa giáo dục, chúng ta sẽ sớm hình thành các tính cách tiêu cực trong lớp trẻ, khiến lớp trẻ mất niềm tin vào cuộc sống và sự trong sạch của ngành giáo dục, và điều đó chắc chắn sẽ tiêu diệt từ trong từng nước những hạt nhân tiên tiến cho sự nghiệp chấn hưng đất nước. Tóm lại, xã hội hóa giáo dục là một việc nên làm và phải làm bởi nó sẽ huy động và đánh thức tiềm năng của mọi thành phần kinh tế. Xã hội hóa giáo dục là giải pháp quan trọng để hệ thống giáo dục nước ta tiến kịp các nước khu vực và thế giới. | |
|
Black Admin
Tổng số bài gửi : 133 Age : 35 Đến Từ : TP HCM Nghề Nghiệp : Developer Điểm : Registration date : 04/04/2008
| Tiêu đề: Re: Hạn chế của nền Giáo dục Việt Nam Wed Jul 23, 2008 7:55 pm | |
| Khổ lắm...nói mãi...nền GD VN càng làm càng chẳng ra gì,toàn cải trớt quớt cách xàm xí.... Đáng thương cho lứa tuồi học sinh bấy giờ | |
|