|
Ảnh minh họa |
Ngày trước, muốn đi vay một khoản tiền nhỏ, nhiều khi người dân phải chạy hàng chục cây số. Lúc đó, quanh đi quẩn lại người ta cũng chỉ có thể đến được vài ba ông “ngân hàng quốc doanh” đầy quyền thế...
Ấy vậy mà, ngoảnh đi ngoảnh lại mới có vài ba năm, nay cứ vô tình bước ra ngõ, người dân (đặc biệt là dân thị thành) lại bất ngờ “vấp” phải một “ông ngân hàng” nào đó.
Trong mỗi năm 2007 và nửa đầu năm 2008 này thôi, số lượng các ngân hàng ra đời đã cho con số gấp 5 gấp 7 lần hàng chục năm trước đó. Ngành ngành lập ngân hàng, nghề nghề mở ngân hàng. Rồi liên doanh, liên kết, rồi góp vốn, đầu tư “chéo” v.v. Mà một ngân hàng, ít thì 3-4, nhiều lên tới hàng chục chi nhánh. Việc “nhân bản” các chi nhánh nhỏ, các phòng giao dịch, các quầy tiết kiệm lại cứ thế mà tha hồ rộng mở.
Ai cũng hiểu, sự nở rộ của ngân hàng thường có lợi cho người dân. Ai cũng hiểu, sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng chứng tỏ những mốc tốt đẹp của nền kinh tế mở. Nhưng mấy ai hiểu, để có được một ngân hàng, rất nhiều những cổ đông, đặc biệt là các “cổ đông chiến lược” như các tập đoàn, các tổng công ty Nhà nước hay là các cá nhân giàu có đã “quặn ruột tằm” trút vào đó hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng tiền vốn.
Đó là những đồng tiền lẽ ra phải đầu tư vào sản xuất, xây dựng hạ tầng, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững nhưng lại được đưa vào kinh doanh kiếm lời trong ngắn hạn.
Để rồi, rất nhiều ngành nghề, rất nhiều lĩnh vực trở thành thiếu vốn, thiếu hàng, “yếu” đủ thứ – mà những thứ này thì đều ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống thường nhật của người dân. Việc quản lý hệ thống, việc quản lý nguồn tiền, quản lý hoạt động vay vốn, dư nợ… cũng đứng trước những khó khăn lớn hơn.
Lẽ nào chúng ta không thấy, thực tế “nở rộ ngân hàng” đã từng cho những con rồng kinh tế châu Á nhiều bài học cay đắng?
Thường Sơn